Trong ngữ cảnh thơ ca hiện đại, thơ thất ngôn tứ tuyệt vẫn giữ vị trí vững chắc và tiếp tục được sử dụng rộng rãi nhờ vào tính linh hoạt và sự cô đọng trong biểu hiện cảm xúc. Dù truyền tải những chủ đề mới mẻ, hiện đại, các tác giả vẫn khai thác triệt để kết cấu và luật thơ nghiêm ngặt của thể thơ thất ngôn tứ tuyệt để giữ được nét đặc trưng mang tính truyền thống. Thể thơ này mang lại cho người sáng tác khả năng sáng tạo đáng kể khi kết hợp các yếu tố hiện đại như ngôn ngữ đời thường, hình ảnh mới lạ mà vẫn giữ được sự mượt mà trong ngữ điệu. Qua đó, thơ thất ngôn tứ tuyệt không chỉ là minh chứng sống động cho sự tiếp biến văn hóa mà còn thể hiện sự đồng hành cùng thời đại mới. Nhiều nhà thơ trẻ đã thành công trong việc áp dụng kỹ thuật này, tạo ra những bài thơ vừa truyền thống vừa đương đại, mở rộng phạm vi tiếp cận của thể thơ truyền thống đối với công chúng hiện nay. Việc duy trì, phát triển và đổi mới thơ thất ngôn tứ tuyệt trong sáng tác đương đại thể hiện sự tôn vinh giá trị lịch sử đồng thời đáp ứng nhu cầu cảm xúc đa dạng của độc giả hiện đại, góp phần làm phong phú thêm bức tranh văn hóa nghệ thuật Việt Nam. Bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) được làm bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chẽ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, sảng khoái. Thơ thất ngôn tứ tuyệt sở hữu cấu trúc độc đáo với bốn câu, mỗi câu có đúng bảy chữ, tạo nên một hình thức vừa ngắn gọn vừa có chiều sâu, thu hút người đọc qua từng vần điệu mượt mà. Cấu trúc này giúp tăng thêm tính thẩm mỹ và nội dung cô đọng, cho phép nhà thơ thể hiện ý tưởng một cách cô đọng nhưng vẫn đủ để truyền tải thông điệp sâu sắc, tạo nên sự hài hòa giữa hình thức và nội dung. Theo các nhà nghiên cứu văn học, thơ thất ngôn tứ tuyệt thường chứa đựng phần ý ở cuối mỗi câu hoặc cuối bài, khiến người đọc phải suy ngẫm, tưởng tượng, và tự mình khám phá chiều sâu của tác phẩm. Việc sử dụng luật thơ, bao gồm thanh bằng trắc và vần điệu, cũng góp phần làm nổi bật độ nhạc và sự liên kết chặt chẽ giữa các câu thơ. Thơ thất ngôn tứ tuyệt không chỉ đơn thuần để thưởng thức mà còn là phương tiện bộc lộ cảm xúc tinh tế của tác giả về thiên nhiên, tình yêu, cuộc sống và triết lý nhân sinh. Qua khả năng truyền tải sở cảm phong phú, thể thơ này giữ vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời làm phong phú thêm kho tàng thơ ca Việt Nam nói chung. Việc vừa yêu thích vừa nghiên cứu thêm về thơ thất ngôn tứ tuyệt giúp mỗi người cảm nhận sâu hơn về cuộc sống qua lăng kính nghệ thuật độc đáo này. Thất ngôn tứ tuyệt (七言四絶) là thể thơ mỗi bài có 4 câu và mỗi câu 7 chữ, trong đó các câu 1, 2, 4 hoặc chỉ các câu 2, 4 hiệp vần với nhau ở chữ cuối. Thể thơ này ra đời vào thế kỉ XII vào Nhà Đường, ở Trung Quốc.